Chẩn đoán xác định dựa vào lâm sàng và siêu âm tim. Về lâm sàng: nghe tim có tiếng thổi tâm thu ở ổ van động mạch chủ, lan về các mạch máu ở cổ, nhất là bên phải nhưng đôi khi tiếng thổi này có thể lan cả về phía mỏm tim, tiếng T2 mờ ổ van động mạch chủ. Các dấu hiệu ngoại biên cần được tìm kiếm đó là mạch thường nhỏ (vì mỗi lần tâm thu luồng máu tống ra bị chỗ hẹp làm cho yếu đi), nảy chậm so với thời gian mỏm tim đập, huyết áp kẹt… Siêu âm - Doppler tim giúp chẩn đoán xác định và đánh giá mức độ hẹp van động mạch chủ thông qua phép tính diện tích lỗ van động mạch chủ và phép đo chênh áp qua van động mạch chủ bằng Doppler: Hẹp nhẹ van động mạch chủ (diện tích lỗ van > 1,5 cm2, chênh áp tối đa qua van < 40 mmHg, chênh áp trung bình < 20 mmHg) ; hẹp vừa (diện tích lỗ van từ 1 – 1,5 cm2, chênh áp tối đa 40 – 70 mmHg, chênh áp trung bình 20 – 40 mmHg) hẹp khít (diện tích lỗ van < 1,0 cm2, chênh áp tối đa > 70 mmHg và chênh áp trung bình > 40 mmHg). Điều trị nội khoa hẹp van động mạch chủ chỉ là điều trị tạm thời, bao gồm điều trị triệu chứng và điều trị các biến chứng nếu có (điều trị cơn đau thắt ngực, điều trị suy tim, điều trị tắc mạch, rối loạn nhịp tim, viêm nội tâm mạc do vi khuẩn...). Điều trị ngoại khoa là điều trị căn bản tuy nhiên phải lựa chọn thời điểm phù hợp. Điều trị ngoại khoa hiện nay chủ yếu là cắt bỏ van động mạch chủ bị tổn thương và thay bằng một van nhân tạo với sự trợ giúp của hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể. Nên chỉ định phẫu thuật ngay khi hẹp rất khít van động mạch chủ (diện tích lỗ van động mạch chủ < 0,75 cm2) và càng nên khẩn trương nếu bệnh nhân có các cơn ngất trên lâm sàng và/hoặc các cơn đau thắt ngực ngày càng nhiều. Cần lưu ý là phân số tống máu EF trên siêu âm tim là một thông số rất quan trọng có giá trị quyết định sự thành công của phẫu thuật và tiên lượng bệnh nhân sau phẫu thuật. Người thày thuốc nên chỉ định phẫu thuật thay van động mạch chủ khi chức năng tâm thu thất trái của bệnh nhân còn bù (phân số tống máu EF ≥ 50%). Nếu chức năng tâm thu thất trái mất bù (EF < 50%) thì tiên lượng của bệnh nhân sẽ xấu đi rất nhiều, thậm chí không còn chỉ định phẫu thuật thay van nếu EF quá thấp (<40%).
TS. Tạ Mạnh Cường |